Nợ xấu thực tế
Các công ty mua và bán nợ là chìa khóa để loại bỏ nợ xấu – nợ xấu là 485 tỷ rupiah – việc xử lý nợ xấu đòi hỏi phải có ngân hàng tài trợ – số lượng nợ xấu. Nó đã được thông báo rằng các khoản cho vay cho đầu tư và giao dịch chứng khoán khoảng 12 nghìn tỷ đồng (tính đến ngày 31 tháng 5), nợ xấu là 485 tỷ đồng, nhưng không có gì thực sự thuyết phục. -Về báo cáo tài chính của SME trong sáu tháng đầu năm 2011, các khoản nợ và nợ ngắn hạn khác của các công ty chứng khoán (DNNVV) là khoảng 580 tỷ đồng. Trong đó, khoản nợ của hợp đồng môi giới trái phiếu, khoản nợ dùng để thanh toán tạm ứng khoản vay mua bán chứng khoán từ ngân hàng là khoảng 340 tỷ đồng.
Cho đến nay, tính thanh khoản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có dấu hiệu cải thiện, do đó khả năng trả nợ của công ty được cho là rất thấp. Giả sử rằng nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thay đổi trong năm ngoái, chỉ riêng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chiếm tới 70% chứng khoán nợ xấu.
Nếu các doanh nghiệp nhỏ không làm điều này, con số này không thuyết phục. Nó chỉ là một công ty chứng khoán tầm trung, vì vậy họ là một phần của người khổng lồ cung cấp tín dụng cho các hoạt động đầu tư. Nếu chúng ta tăng các khoản nợ xấu mà các ngân hàng SME nợ cho một công ty chứng khoán với công ty mẹ là 250 tỷ đồng bằng 340 tỷ đồng vào đầu quý ba, con số này sẽ là 590 tỷ đồng. -Chỉ có hai công ty chứng khoán có khoản nợ (được coi là nợ xấu) vượt quá 485 tỷ đồng, và không thể nói rằng hàng chục công ty chứng khoán còn lại trên thị trường không có nợ xấu. Chênh lệch giữa thực tế và số lượng chứng khoán nợ xấu là 485 tỷ đồng dường như không nhỏ.
Thống đốc Ngân hàng Quốc gia cho biết, một trong những nguyên nhân của nhiều tình huống kỹ thuật số là nợ xấu. Điều này là do các phương pháp thu thập dữ liệu khác nhau, bao gồm báo cáo cho các tổ chức tín dụng.
Về mặt logic, hoạt động của các ngân hàng thương mại rất phức tạp và yêu cầu dữ liệu rất nghiêm ngặt. Nhưng trong nhiều trường hợp, việc tiết lộ nợ xấu là do “bản sao lỗ ba sao” và thực tế là nhiều công ty chứng khoán sử dụng các kỹ thuật để dễ dàng thay đổi số liệu nợ xấu. — — Thị trường nợ xấu không thực sự thuyết phục. Hình minh họa .
Công ty chứng khoán vay tiền từ ngân hàng và sau đó cho nhà đầu tư vay (ký quỹ) để giao dịch. Do đó, nếu chúng ta nói về nợ xấu, nợ giữa các công ty chứng khoán và ngân hàng là không đủ, nhưng cũng có những khoản nợ xấu giữa các công ty chứng khoán và khách hàng của họ.
Biên độ “ngầm” của công ty chứng khoán đã ký hợp đồng trước đây là thấp về mặt pháp lý, khiến cho việc thu nợ không thể thực hiện được. Đây là một trong những lý do chính gây mất an ninh tài chính. Kịch bản lạc quan nhất là các công ty chứng khoán có đủ vốn để trả nợ ngân hàng, và số nợ xấu là 485 tỷ rupiah. Xác định số nợ xấu giữa các công ty chứng khoán và khách hàng là một thách thức lớn.
Hơn nữa, không dễ để xác định số tiền nào là nợ xấu giữa các công ty chứng khoán và khách hàng. Có một số cách để bỏ lỡ nó. Ví dụ, việc liên tục gia hạn các thỏa thuận cho vay đối với giao dịch ký quỹ tương tự như hình thức “giả định nợ”. Hoặc việc định giá tài sản thế chấp cũng rất bất tiện.
Ví dụ, nếu các nhà đầu tư sử dụng tài sản thế chấp của họ làm cổ phiếu không cần kê đơn để giao dịch ký quỹ, việc định giá hoặc giảm giá trị là không khó. Tuy nhiên, vì các giao dịch trên thị trường giao dịch hiện tại rất kém, các vấn đề phát sinh khi các tài sản này cần phải được thao túng.
Nếu ngân hàng vẫn có các tài liệu và biện pháp pháp lý chứng khoán để xử lý nợ xấu, hiệu quả thu nợ xấu giữa các công ty chứng khoán sẽ rất thấp. Khi được hỏi liệu có cách nào để thu nợ xấu hay không, câu trả lời chỉ đơn giản là cố gắng thu nợ xấu dựa trên sự may mắn của khách hàng, bất kể khách hàng có trả tiền hay không. Các khoản cho vay không hiệu quả giữa các công ty chứng khoán và khách hàng chưa được xác định rõ ràng, vì vậy việc giám sát an toàn tài chính và sức khỏe của các công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều thách thức.
(Theo đầu tư tài chính của Sài Gòn)